Trả lời phỏng vấn tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn về sự kiện Trung Quốc di chuyển giàn khoan về phía Hải Nam, giáo sư Carl Thayer của của Học viện Quốc phòng Australia cho biết: "Trước hết đây là tin tốt lành – ít nhất là lúc này. Điều này sẽ giúp giảm bớt căng thẳng và tạo điều kiện cho Trung Quốc và Việt Nam có thể bắt đầu các đàm phán cấp cao.
Khi Trung Quốc mới triển khai giàn khoan Hải Dương - 981, họ tuyên bố sẽ rút vào ngày 15-8. Có hai lý do cho việc thông báo thời hạn này: rút giàn khoan trước mùa bão và để tránh căng thẳng kéo dài với Việt Nam. Thời điểm rút lui hiện tại có thể là vì cơn bão Rammasun. Dù cơn bão không nhắm thẳng trực tiếp khu vực giàn khoan vận hành, cơn bão mang theo thời tiết xấu. Điều này sẽ ảnh hưởng tới đoàn tàu hộ tống của phía Trung Quốc. Trung Quốc bản thân cũng muốn tránh rủi ro. Ngoài ra, có khả năng rút sớm nữa là vì Trung Quốc muốn giảm căng thẳng với Việt Nam để giảm bớt các chỉ trích tại diễn đàn khu vực ARF sắp tới".
|
Giàn khoan Hải Dương 981 bị Trung Quốc hạ đặt trái phép trong vùng biển Việt Nam. |
- Đưa giàn khoan vào Hoàng Sa đã ảnh hưởng đến uy tín của Trung Quốc ra sao?
Việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam là hành động gây tổn hại lớn về mặt chính trị và ngoại giao cho chính Trung Quốc. Các ngoại trưởng ASEAN đã đưa ra tuyên bố riêng bày tỏ sự quan ngại sâu sắc. Các nước công nghiệp phát triển G7 cũng đưa ra tuyên bố. Cả Mỹ, Nhật và Úc đều phê phán Trung Quốc vì hành động đơn phương, gây xáo trộn nguyên trạng. Malaysia và Indonesia đều thể hiện sự nghi ngại ngày càng tăng đối với hành vi của Trung Quốc. Việt Nam và Philippines đã thể hiện lòng đoàn kết. Và Việt Nam vẫn duy trì việc xem xét sẽ kiện Trung Quốc.
Cuộc chiến thông tin của Trung Quốc nhằm biện hộ cho hành vi của mình không được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Nhưng mặt khác, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có thể tiếp tục tăng được ảnh hưởng trong nước với cái cớ là bảo vệ “chủ quyền không thể tranh cãi.”
- Chúng ta học được gì từ cuộc khủng hoảng giàn khoan lần này?
Cuộc khủng hoảng cho thấy Trung Quốc đã có chiến lược rất tinh vi, bằng việc sử dụng các giàn khoan dầu mỏ, các tàu chấp pháp mang mác dân sự, tàu chiến và máy bay để áp đặt các tuyên bố chủ quyền của mình. Trung Quốc sẽ không từ bỏ chiến lược này trong tương lai. Việt Nam phải chuẩn bị để đối phó với những chiến lược tương tự.
Việt Nam đã hành động đúng khi không leo thang đáp trả các gây hấn từ phía Trung Quốc. Việt Nam đã đúng khi giữ tàu chiến hải quân ở đất liền, tránh không đụng độ tại khu vực giàn khoan dầu mỏ. Dù lực lượng cảnh sát biển và lực lượng kiểm ngư của Việt Nam đã làm công việc rất tốt để phản đối hành động của Trung Quốc, một điều rõ ràng là cả hai lực lượng này cần được hiện đại hóa và mở rộng trong những năm tới.
Quốc hội Việt Nam cũng đã phê chuẩn ngân sách (cho việc mở rộng) nhưng cần có một chương trình dài hạn được lên kế hoạch nữa. Việt Nam cần tàu lớn và tải trọng lớn hơn để đối phó với Trung Quốc. Việt Nam cũng cần hệ thống giám sát trên không tốt hơn nữa.
Với Việt Nam, bài học chính yếu là dù quan hệ với Trung Quốc có tốt tới đâu, Việt Nam cũng luôn phải chuẩn bị cho những trở mặt bất ngờ kiểu này. Việt Nam có thể hài lòng trong việc cung cấp thông tin cho cộng đồng thế giới nhưng cũng cần nhìn lại toàn bộ chiến dịch thông tin để rút kinh nghiệm và làm tốt hơn, hiệu quả hơn trong trường hợp Trung Quốc gây hấn lần nữa với kiểu giàn khoan này.
Giới học giả và chuyên gia Việt Nam cần được huy động để đối phó chiến dịch tuyên truyền của giới học thuật Trung quốc. Lần này Việt Nam phản kháng rất tốt. Nên thiết lập một mạng lưới để có thể phản ứng ngay tức khắc với các tuyên truyền của Trung Quốc. Việt Nam nên nghiên cứu về các kênh truyền thông hay trang mạng lớn nào có thể tiếp cận (khi cần) trong tương lai.
Các lực lượng trên biển của Việt Nam cũng cần tăng cường sự cảnh giác để có thể biết trước các hành vi tương lai của Trung Quốc. Điều này đòi hỏi phải có sự hợp tác với các cường quốc hải dương khác và phải theo dõi chặt tất cả các giàn khoan của Trung Quốc cũng như bất cứ các hoạt động bất thường nào ở các cảng biển gần Biển Đông ví dụ cảng Sanya ở đảo Hải Nam hay đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa.
Việt Nam đồng thời phải tăng hơn nữa các nỗ lực theo dõi đường biên ở các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình.