Chèo bẻo (Dicrurus macrocercus): Với chiều dài từ 27 - 29 cm, đây là loài phổ biến trên khắp cả nước và thường trú đông ở khu vực Nam Bộ. Chúng thích sống tại những vùng trống trải như đất nông nghiệp, bãi cây bụi và thường tụ tập thành đàn dọc ven đường. Ảnh Báo An ninh Thủ đô Chèo bẻo xám (Dicrurus leucophaeus): Có kích thước tương đương loài trên (26 - 29 cm), loài này định cư quanh năm nhưng cũng di cư theo mùa, chủ yếu xuất hiện ở các khu vực trống trong rừng, rừng ngập mặn và cả những vùng có độ cao lên tới 2.750 m. Ảnh Báo An ninh Thủ đô Chèo bẻo mỏ quạ (Dicrurus annectans): Dài khoảng 27 - 32 cm, loài này sinh sản chủ yếu ở khu vực Đông Bắc, Bắc và Trung Trung Bộ. Khi di cư, chúng không phổ biến bằng các loài khác và thường trú đông ở rừng lá rộng thường xanh, rừng hỗn giao rụng lá, rừng ngập mặn hoặc những khu vực ven biển có cây bụi. Ảnh Báo An ninh Thủ đô Chèo bẻo rừng (Dicrurus aeneus): Đây là loài nhỏ nhất trong họ chèo bẻo với chiều dài 22 - 24 cm. Chúng sinh sống chủ yếu ở các cánh rừng lá rộng thường xanh, bán thường xanh, rừng rụng lá và bìa rừng, xuất hiện khá phổ biến trên cả nước. Ảnh Báo An ninh Thủ đôChèo bẻo cờ đuôi bằng (Dicrurus remifer): Có kích thước từ 25 - 28 cm, loài này định cư rộng rãi tại Việt Nam, thường gặp trong các cánh rừng lá rộng thường xanh và bán thường xanh. Ảnh Báo An ninh Thủ đôChèo bẻo bờm (Dicrurus hottentottus): Với chiều dài 29 - 33 cm, đây là một trong những loài phổ biến nhất trong họ chèo bẻo. Chúng sống chủ yếu trong các khu rừng lá rộng thường xanh, bán thường xanh và rừng rụng lá. Trong mùa di cư, loài này có thể xuất hiện cả trong các khu vực vườn cây, công viên và thường di chuyển theo đàn lớn. Ảnh Báo An ninh Thủ đô Chèo bẻo cờ đuôi chẻ (Dicrurus paradiseus): Là loài có kích thước lớn nhất trong họ chèo bẻo (33 - 36 cm), chúng phân bố rộng rãi trên cả nước. Loài này thường sinh sống trong các khu rừng lá rộng thường xanh, rừng rụng lá, rừng đầm lầy hoặc rừng trồng. Ảnh Báo An ninh Thủ đô
Chèo bẻo (Dicrurus macrocercus): Với chiều dài từ 27 - 29 cm, đây là loài phổ biến trên khắp cả nước và thường trú đông ở khu vực Nam Bộ. Chúng thích sống tại những vùng trống trải như đất nông nghiệp, bãi cây bụi và thường tụ tập thành đàn dọc ven đường. Ảnh Báo An ninh Thủ đô
Chèo bẻo xám (Dicrurus leucophaeus): Có kích thước tương đương loài trên (26 - 29 cm), loài này định cư quanh năm nhưng cũng di cư theo mùa, chủ yếu xuất hiện ở các khu vực trống trong rừng, rừng ngập mặn và cả những vùng có độ cao lên tới 2.750 m. Ảnh Báo An ninh Thủ đô
Chèo bẻo mỏ quạ (Dicrurus annectans): Dài khoảng 27 - 32 cm, loài này sinh sản chủ yếu ở khu vực Đông Bắc, Bắc và Trung Trung Bộ. Khi di cư, chúng không phổ biến bằng các loài khác và thường trú đông ở rừng lá rộng thường xanh, rừng hỗn giao rụng lá, rừng ngập mặn hoặc những khu vực ven biển có cây bụi. Ảnh Báo An ninh Thủ đô
Chèo bẻo rừng (Dicrurus aeneus): Đây là loài nhỏ nhất trong họ chèo bẻo với chiều dài 22 - 24 cm. Chúng sinh sống chủ yếu ở các cánh rừng lá rộng thường xanh, bán thường xanh, rừng rụng lá và bìa rừng, xuất hiện khá phổ biến trên cả nước. Ảnh Báo An ninh Thủ đô
Chèo bẻo cờ đuôi bằng (Dicrurus remifer): Có kích thước từ 25 - 28 cm, loài này định cư rộng rãi tại Việt Nam, thường gặp trong các cánh rừng lá rộng thường xanh và bán thường xanh. Ảnh Báo An ninh Thủ đô
Chèo bẻo bờm (Dicrurus hottentottus): Với chiều dài 29 - 33 cm, đây là một trong những loài phổ biến nhất trong họ chèo bẻo. Chúng sống chủ yếu trong các khu rừng lá rộng thường xanh, bán thường xanh và rừng rụng lá. Trong mùa di cư, loài này có thể xuất hiện cả trong các khu vực vườn cây, công viên và thường di chuyển theo đàn lớn. Ảnh Báo An ninh Thủ đô
Chèo bẻo cờ đuôi chẻ (Dicrurus paradiseus): Là loài có kích thước lớn nhất trong họ chèo bẻo (33 - 36 cm), chúng phân bố rộng rãi trên cả nước. Loài này thường sinh sống trong các khu rừng lá rộng thường xanh, rừng rụng lá, rừng đầm lầy hoặc rừng trồng. Ảnh Báo An ninh Thủ đô