Nằm trên địa phận hai tỉnh An Giang và Kiên Giang ở đồng bằng sông Cửu Long, kênh Vĩnh Tế là con kênh đào lớn nhất trong lịch sử thời phong kiến Việt Nam. Ảnh: Kênh Vĩnh Tế đoạn chảy qua thành phố Châu Đốc.
Con kênh này chạy song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia, bắt đầu từ bờ tây sông Châu Đốc thẳng nối giáp với sông Giang Thành, thuộc thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang ngày nay. Ảnh: Kênh Vĩnh Tế ở khu vực biên giới, phía xa là những ngọn núi nằm trên lãnh thổ Campuchia. Ý tưởng đào kênh Vĩnh Tế có từ năm 1816, khi thành Châu Đốc được đắp xong, Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường bẩm báo công việc lên vua Gia Long. Ảnh: Một cây cầu bắc qua kênh Vĩnh Tế đang được xây dựng ở ngã ba sông Châu Đốc - kênh Vĩnh Tế. Vua xem địa đồ miền đất này liền truyền: “Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên, thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy”. Ảnh: Làng xóm hai bên bờ kênh Vĩnh Tế. Do đây là vùng đất mới mở, nhân dân còn cơ cực, nên phải đến năm 1819 vua Gia Long mới cho lệnh đào kênh. Việc đào kênh kéo dài đến năm 1824 thì hoàn thành. Ảnh: Sinh hoạt của người dân bên bờ kênh Vĩnh Tế. Ước tính trong 5 năm, các quan phụ trách đã phải huy động đến hơn 90.000 dân binh. Tổng số ngày công là 3.463.500, và khối lượng đất đào là: 2.845.035m³. Chuyển đổi theo hệ đo lường ngày nay, kênh Vĩnh Tế có chiều dài là 87km, độ rộng trung bình 30m, độ sâu trung bình khoảng 2,55m. Tuy nhiên, trừ những đoạn sông rạch sẵn có thì phần phải đào mới chỉ là 37km. Cái giá phải trả cho con kênh này là không nhỏ. Do thiên nhiên khắc nghiệt, việc ăn uống, thuốc men thiếu thốn, khiến số người chết vì bệnh tật, kiệt sức, vì thú dữ như cá sấu, rắn... rất cao. Dù luật lệ ràng buộc, nhiều người đã tìm cách bỏ trốn và mất mạng do tai ương trên đường đi. Dù vậy, ý nghĩa lịch sử của kênh Vĩnh Tế là không thể phủ nhận. Đến bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thủy, giao thông, thương mại, biên phòng. Ảnh: Phao tiêu trên kênh Vĩnh Tế. Việc đào kênh Vĩnh Tế cũng thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn. Ảnh: Một cống xả của kênh Vĩnh Tế.
Nằm trên địa phận hai tỉnh An Giang và Kiên Giang ở đồng bằng sông Cửu Long, kênh Vĩnh Tế là con kênh đào lớn nhất trong lịch sử thời phong kiến Việt Nam. Ảnh: Kênh Vĩnh Tế đoạn chảy qua thành phố Châu Đốc.
Con kênh này chạy song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia, bắt đầu từ bờ tây sông Châu Đốc thẳng nối giáp với sông Giang Thành, thuộc thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang ngày nay. Ảnh: Kênh Vĩnh Tế ở khu vực biên giới, phía xa là những ngọn núi nằm trên lãnh thổ Campuchia.
Ý tưởng đào kênh Vĩnh Tế có từ năm 1816, khi thành Châu Đốc được đắp xong, Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường bẩm báo công việc lên vua Gia Long. Ảnh: Một cây cầu bắc qua kênh Vĩnh Tế đang được xây dựng ở ngã ba sông Châu Đốc - kênh Vĩnh Tế.
Vua xem địa đồ miền đất này liền truyền: “Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên, thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy”. Ảnh: Làng xóm hai bên bờ kênh Vĩnh Tế.
Do đây là vùng đất mới mở, nhân dân còn cơ cực, nên phải đến năm 1819 vua Gia Long mới cho lệnh đào kênh. Việc đào kênh kéo dài đến năm 1824 thì hoàn thành. Ảnh: Sinh hoạt của người dân bên bờ kênh Vĩnh Tế.
Ước tính trong 5 năm, các quan phụ trách đã phải huy động đến hơn 90.000 dân binh. Tổng số ngày công là 3.463.500, và khối lượng đất đào là: 2.845.035m³.
Chuyển đổi theo hệ đo lường ngày nay, kênh Vĩnh Tế có chiều dài là 87km, độ rộng trung bình 30m, độ sâu trung bình khoảng 2,55m. Tuy nhiên, trừ những đoạn sông rạch sẵn có thì phần phải đào mới chỉ là 37km.
Cái giá phải trả cho con kênh này là không nhỏ. Do thiên nhiên khắc nghiệt, việc ăn uống, thuốc men thiếu thốn, khiến số người chết vì bệnh tật, kiệt sức, vì thú dữ như cá sấu, rắn... rất cao. Dù luật lệ ràng buộc, nhiều người đã tìm cách bỏ trốn và mất mạng do tai ương trên đường đi.
Dù vậy, ý nghĩa lịch sử của kênh Vĩnh Tế là không thể phủ nhận. Đến bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thủy, giao thông, thương mại, biên phòng. Ảnh: Phao tiêu trên kênh Vĩnh Tế.
Việc đào kênh Vĩnh Tế cũng thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn. Ảnh: Một cống xả của kênh Vĩnh Tế.